Gioan Ven (Théophane Vénard), Sinh năm 1829 tại St. Loup sur Thouet, Poitiersm, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Tự Ðức, Năm 1865, Đức Piô X suy tôn cha Gioan Théophane Vénard Ven lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 2/02.
Nụ cười bất tận
Tạp chí “Những người ra đi” (1) số dành riêng cho hội thừa sai Pari đã phác họa chân dung vị thánh Tử Đạo trẻ trung, linh mục Théophane VÉNARD VEN như sau:
“Phải nói rằng khi anh chào đời một đóa hồng nở trên môi, một cánh chim cất tiếng líu lo bên tai. Bởi vì khi anh diễn tả ý mình, lời anh tràn ngập những hình ảnh dễ thương dịu dàng duyên dáng. Mối tình thân từ nhỏ cũng như sau này, anh càng duy trì bền vững ngày càng đậm đà, ngọt ngào và thánh thiện.
“Đời anh là một bài ca trong lúc vui lúc buồn. Từ những biến cố thời học sinh cho đến lòng sốt sắn khi gia nhập hàng tư tế. Anh hát lên khi rời đất Pháp, anh hát lên khi thấy đất Việt Nam…
“Trong những lá thư dài và thường xuyên, anh kể lại cho gia đình từng chi tiết anh gặp trong đời. Đối với anh đời tông đồ sao mà thoải mái, vui tươi dễ yêu đến thế ! Anh thi vị hóa tất cả : Với anh việc cực nhọc thành nhẹ nhàng, gánh nặng nên nhẹ nhõm, bệnh tật không làm anh nản chí, anh coi như cơ hội thưởng ném những giây phút nghỉ ngơi, các cuộc hành trình qua đồng lầy, núi cao hay trên đường sỏi đá, anh diễn tả dưới màu sắc tươi mát như đi dạo giữa mùa xuân. Anh quả là cây huệ có sức mạnh của cây sồi.
“Chúng ta chỉ có thể đoán ra những cực hình anh chịu, vì anh mô tả chúng đằng sau những cánh hoa kỳ diệu, mà anh không ngừng gieo trồng tung vãi mọi nơi cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Những cánh hoa đó nở rộ trong công việc của anh, nở trong những cực hình, nở trong cũi gỗ, nở trên những dụng cụ tra tấn và nở ngay trên mảnh đất thấm máu đào của anh. Quan tòa cũng trở thành bạn hữu, lý hình cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ, đối với anh, nhát gươm chém đầu định mệnh cũng chỉ là “ngắt nhẹ cánh hoa tuyển lựa, để trang hoàng trên bàn thờ”.
Tìm viên ngọc Viễn Đông
Gioan Théophane Vénard sinh ngày 21-11-1829 sinh tại Saint Loup sur Thouet, thuộc thị trấn Deux Sèvres nước Pháp. Thân phụ ông là Gioan Vénard, thân mẫu là bà Marie Gueret. Gioan Théophane Vénard chịu ảnh hưởng rất nhiều nơi thân phụ. Chính ông dạy dỗ và gợi lên trong cậu ước nguyện làm linh mục. Cũng chính ông gởi gắm cậu cho cha xứ để học tiếng Latinh.
Năm 14 tuổi, thân mẫu cậu qua đời, chị Mélanie trở thành người bảo mẫu hiền dịu, đã cùng với thân phụ chăm sóc khích lệ cậu vượt qua mọi khó khăn thời chủng viện, và thư từ thường xuyên với linh mục Vénard trên bước đường truyền giáo sau này.
Mãn khóa triết học sau này, thày Vénard được chuyển qua giáo phận Poitiers tiếp tục khóa thần học (1848). Qua các thư từ gởi cho thân phụ, ta biết thầy Vénard tại Poitiers đã thao thức nhiều về việc truyền giáo. Do đó, ngay sau khi lãng chức phó tế, thầy xin gia nhập hội thừa sai giáo phận. Năm 1852, thầy được Đức cha Piô phong chức linh mục, vị tân linh mục nôn nao chờ ngày được phái dến Việt Nam.
Ngày 23-09-1852, cha xuống tàu ở cảng Anvers để thế chân thừa sai mới bị trục xuất khỏi Việt Nam. Sau bốn tháng rưỡi bập bềnh trên biển cả, cha Vénard đến Singapo. Nơi đây cha gặp bốn chủng sinh Việt Nam với những xúc động sâu xa, vì cha coi họ là anh em của các vị tử đạo. Sau đó cha được đưa đến Hồng Kông chờ cơ hội. Ở đây cha nỗ lực học thêm tiếng Hán. Trong một lá thư viết từ Paris, cha Darran nói với cha Vénard rằng : “Thưa cha, viên ngọc quý Việt Nam được trao cho cha rồi đó.” (02.1854).
Ngày 13-07-1854 cha cập bến Cửa Cấm, và được tiếp đón cách long trọng tại tòa Giám Mục Vĩnh Trị, trụ sở Đức Cha Retord Liêu đang phụ trách giáo phận Tây Đằng Ngoài. Sau vài tháng học tiếng cha tháp tùng Đức Cha đi kinh lý khắp nơi, và dạy học ở chủng viện. Đầu tháng 03-1857, viên tri huyện Vĩnh Trị là bạn thân Đức Cha Retord, trước khi đem quân đến vây bắt, ông đã báo tin cho biết, nhờ đó Đức Cha Retord và cha Charbonnier chạy thoát (cha Lê Bảo Tịnh ra trình diện). Từ đây bắt đầu những ngày lưu lạc của cha Ven, nay đây mai đó không lúc nào yên ổn.
Tù tội vì yêu thương
Ngày 30-11-1860, nhân lúc cha đang ở Kẻ Bèo, viên Cai Đội đem 5,6 chiếc thuyền chở khoảng 20 người đến vậy bắt cha. Cha liền trốn giữa vách đôi của căn nhà, cai đội thét lớn tiếng : “Tây dương đạo trưởng đâu ra đây ngay”. Thầy giảng Phêrô Khang tìm cách nói tránh đi : “Ở đây chỉ có tôi thôi. Ông Cai thương tôi được nhờ, ông Cai bắt tôi đành chịu”. Vì đã được mật báo, viên cai đội cho lệnh trói thầy, rồi đi thẳng tới vách nhà vị thừa sai đang ẩn, và đập thật mạnh bật tung miếng ván che ra, bắt cha Vénard Ven nhốt vào củi giải về Thăng Long (Hà Nội).
Trong những ngày chờ đợi, một viên tổng trấn đối xử với cha một cách lịch sự. Ông cho đóng một chiếc cũi rộng hơn một chút và trói cha bằng sợi dây xích nhẹ nhất. Thỉnh thoảng còn mời cha lên phủ ăn cơm như người tự do. Nhưng thời gian đó kéo dài không bao lâu.
Trong lá thư gởi cho gia đình, qua chị Mélanie, cha kể : “Em đã đến Kẻ Chợ (tên cũ của Hà Nội). Cả nhà thử tưởng tượng coi : Ngồi bó gối trong cũi gỗ, tám người lính khiêng hai bên, đám đông dân chúng ồn ào bu lại nhìn xem. Em nghe họ nói : ‘Chàng Au Châu này dễ thương quá. Anh ta thản nhiên và vui tươi như đi dự lễ tiệc, chẳng tỏ vẻ gì là sợ hãi cả’. Em cầu nguyện với Nữ Vương các Thánh Tử Đạo, xin Đức Mẹ phù trợ cho người tôi tớ nhỏ bé của Mẹ. Mới đầu quan tòa cho em uống một chén trà. Em bị ngồi cũi nhưng em uống một cách thản nhiên. Rồi quan tra hỏi như thường lệ :
– Anh đến An Nam để làm gì ?
– Tôi đến đây chỉ để giảng đạo thật.
– Anh bao nhiêu tuổi rồi ?
– Thưa, ba mươi mốt.
Viên quan tỏ vẻ thương cảm thốt lên : “Hắn còn trẻ quá”. Rồi ông hỏi : “Ai sai anh đến đây?” Em đã đáp : “Không phải vua quan đất Pháp gởi tôi đi. Tôi muốn đi rao giảng đạo lành cho mọi người, và các bề trên trong đạo gởi tôi đến Việt Nam.”
Khi viên quan muốn gán cho cha tội xâm lược của Pháp, cha khẳng khái trả lời : “Không bao giờ chúng tôi ủng hộ quân viễn chinh đâu. Nếu không tin cứ để tôi đến gặp họ, tôi sẽ khiển trách việc họ đến gây chiến. Nếu tôi thất bại xin tình nguyện về đây nộp mạng.
– Hãy đạp lên Thánh Giá anh sẽ thoát chết.
– Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập Giá, sao tôi làm như thế được ? Tôi thiết nghĩ cuộc sống đời này đâu quá quý, đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo.
Ngày 03-01-1861, cha viết thư cho Đức Cha Theurel : “Gươm đã ở kề sát bên cổ mà con chẳng rùng mình chút nào. Thiên Chúa nhân lành đã hộ trợ sự yếu đuối của con, nên con thấy vui mừng. Thỉnh thoảng con lại cất cao tiếng hát trong cung điệu này :
Lạy Mẹ dấu yêu
Xin thương đặt con
Trong Quê đời đời
Bên thánh nhan Người.
Lạy Mẹ Vô Nhiễm, khi đầu con rơi xuống dưới đầu gươm của lý hình, xin nhận lấy tôi tớ nhỏ bé như trái nho chín được hái, như bông hồng nở rộ, được ngắt về dâng kính Mẹ AVE MARIA”.
Nhờ một giáo hữu tên Hương dẫn lối, linh mục Thịnh đã đến bên cũi của vị thừa sai giải tội cho cha. Sau lại nhờ một bà đạo đức chuyển cho cha một hộp nhỏ đựng mình thánh chúa. Cha Vénard Ven cung kính chầu thánh thể cho đến nửa đêm, rồi mới chịu lễ. Một lần khi trao mình thánh bị phát hiện, bà này nhanh miệng giải thích là thuốc bổ để trị bệnh.
Ngàn thu vĩnh phúc
Ngày 02-02-1861, nghe quan tuyên đọc bản án trảm quyết, cha Vénard Ven liền mặc áo lông cừu trắng toát mà cha may riêng để mặc trong ngày tử đạo. Cha muốn mặc trang phục đại lễ. Một toán lính độ 200 người và hai sĩ quan cỡi voi áp giải vị anh hùng đức tin ra pháp trường. Suốt nửa giờ hành trình, cha không ngừng hát thánh ca và kết thúc bằng lời kinh “Magnificat”, lời kinh tạ ơn của Đức Mẹ thuở xưa. Tới nơi đã định, lính tháo gông cùm cho cha. Cha liền đứng trên chiếc chiếu đã được trải sẵn, và nhìn khắp tứ phía có ý tìm cha Thịnh để lãnh ơn tha thứ lần cuối. Nhưng cha Thịnh vì không rõ giờ hành quyết nên chưa đến.
Một lý hình thấy chiếc áo cha mặc đẹp quá nên tình nguyện chém cha. Anh ta nói dối rằng cha phải xử lăng trì để cha cởi áo ra cho hắn lấy. Hắn còn đòi đút tiền để chém sao cho mau chết. Vị anh hùng chỉ cười và nói : “Có hề chi đâu, càng lâu càng tốt”. Rồi đưa tay cho hắn trói vào cột, ba hồi chiêng trống vừa dứt, lý hình vung gươm chém lần thứ nhất, gươm trượt qua một bên vào má. Nhát gươm thứ hai y bổ đầu cha ra làm đôi. Năm đó cha Ven mới 32 tuổi.
Các giáo hữu phải nộp tiền để xin an táng thi hài và chuộc lại y phục của cha. Còn thủ cấp của cha thì bị bêu lên cây ba ngày rồi thả trôi sông, sau các thuyền chài vớt được đem về tôn kính.
Năm 1865, Đức Piô X suy tôn cha Gioan Théophane Vénard Ven lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng rất ngưỡng mộ đời sống và những suy tư của cha Gioan Théophane Vénard Ven, thánh nữ đã trích dẫn nguyên đoạn văn cha viết cho thân phụ rồi tiếp : “Tư tưởng và tâm hồn của tôi cũng giống như tư tưởng và tâm hồn của ngài.”
Nguồn Từ Tu Viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Têphanô Ven thừa sai linh mục
Sinh Kỷ Sửu (1829) quê thực Paris
Vâng lời Chúa tự nguyện đi
Viễn Ðông truyền giáo ngại gì khó khăn
Việt Nam lúc chủ chăn đang thiếu
Ðặt ngài vào công hiệu mới cao
Khó khăn đường đến làm sao
Bốn tháng trôi nổi dạt vào Hồng Kông
Ở đây đợi đường thông thuận tiện
Sẽ rước ngài thực hiện bài sai
Giáp Dần (1854) Cửa Cấm đón ngài
Ðưa về địa phận đàng ngoài tiếp thu
Ðức Cha Liệu công du kinh lý
Cần có người thư ký tháp tùng
Gặp quan tri huyện đi lùng
Cha con phải trốn tới vùng nhà quê
Xứ Kẻ Bèo đường đi hẻo lánh
Cha về đây tạm tránh cho qua
Ngờ đâu có kẻ tinh ma
Báo quan cha ở trong nhà vách đôi
Quan cai đội một hồi tìm kiếm
Bắt trói ngài kinh nghiệm càng cao
Củi cùm xiềng xích nhốt ào
Cả đoàn dẫn giải ngài vào Thăng Long
Quan Tổng đốc tinh thông lịch sử
Tra hỏi người trình tự qua loa
Cho người thay củi rộng ra
Xích xiềng thì cũng nhưng là nhẹ tênh
Ðường đi những gập ghềnh gai góc
Bọn tham quan muốn móc ngài vào
Thực dân giặc Pháp ra sao?
Bắt ra thể ấy buộc vào thế kia
Tôi đâu có mang hia đội mũ
Mà vào đây do chủ thiên sai
Giảng đạo nhân nghĩa của Ngài
Công bằng, bác ái, thương người neo đơn
Quan án sát muốn hơn một bước
Ép ngài vào mực thước nhà vua
Thập giá ông hãy bước qua
Tha ngay đưa gấp ngài ra khỏi tù
Tôi đâu phải kẻ ngu người dại
Mà quan bày thiệt hại hồn tôi
Một lòng theo Chúa trọn đời
Thà rằng chịu chết tôi thời vẫn vui
Bị trảm quyết tháng hai Tân Dậu (1861)
Hồn người con trung hậu về trời
Một lòng tận hiến tuyệt vời
Kỷ Dậu (1909) phong thánh đời đời ghi công
Lời bất hủ: Khi quan nói với cha: “Hãy đạp lên Thập giá, anh sẽ thoát chết?”. Cha trả lời: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về Thập giá, sao tôi làm thế được, tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quá quý, đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo”.