Cố Louis Godard Lạc (1845-1919): Mục tử kiên trung của Kẻ Sở và người khai mở nhà in truyền giáo

(Dựa theo Hồ sơ các thừa sai – số 1067)

Louis Godard sinh ngày 13 tháng 11 năm 1845 trong một gia đình làm nghề trồng nho khá giả ở làng Damrémont thuộc Giáo phận Langres ở miền Đông nước Pháp. Sớm có ước muốn trở thành linh mục, Louis sau khi tốt nghiệp Tiểu chủng viện, cậu đã theo học Đại Chủng viện Langres và như thầy tự nhận xét “không phải là một người thông minh” nhưng cần cù chịu khó. Tốt nghiệp chương trình học ở Chủng viện, với ước muốn đến những miền Viễn Đông truyền giáo, thầy đã xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris năm 1867. Sau khi được chịu chức linh mục vào ngày 11 tháng 6 năm 1870, Cha Louis được chỉ định đến truyền giáo ở Địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội) và ngài đã lên tầu ra đi ngay tháng 7 năm đó.

Khi tới Hồng Kông, cha cùng với cả chục cha thừa sai khác phải đợi nhiều tháng mới có một chủ thuyền buồm Trung quốc nhận chở các cha tới Đàng Ngoài. Cập bến bờ biển Thái Bình, các cha bị các quan địa phương giữ lại ở gần Hải Dương để xin giấy thông hành của Triều đình Huế. Mãi đến tháng 2 năm 1871, Cha Louis mới tới được Kẻ Sở để ra mắt Đức cha Phước. Cha được gửi tới một họ đạo gần Kẻ Sở để học tiếng và làm quen với công việc mục vụ. Từ đây giáo dân thường gọi cha là Cố Lạc.

Vào cuối năm 1871, Đức cha Phước đặt mua các máy in xếp chữ ở bên Pháp để thay thế cho cách in thủ công thô sơ cũ lại xưởng in Nhà chung Kẻ Sở, ngài giao cho Cố Lạc phụ trách điều hành nhà in này mà người ta thường biết đến với cái tên ban đầu là Ninh Phú đường. Mặc dù không biết gì cũng như không hứng thú gì với việc in ấn, nhưng ngài đã vâng lời Đức cha mà làm quen với công việc. Cùng với việc phụ trách nhà in, ngài cũng đảm nhận công việc mục vụ Giáo xứ Kẻ Sở.

Thời kỳ này, từ năm 1873-1885, hoàn cảnh xã hội rất khó khăn, triều đình thì nhu nhược, phong trào loạn đảng và giặc Cờ Đen nổi lên khắp nơi, lấy cớ “bài Tây” để cướp phá các nhà thờ và cơ sở Công giáo. Nhà Thờ Lớn Kẻ Sở mới xây dựng xong, nhưng giáo dân lúc đầu mới chỉ là một cộng đoàn nhỏ, Cố Lạc với lòng nhiệt tình của mục tử và đức tin mạnh mẽ vẫn ở lại để sống chết với đoàn chiên, bảo vệ cộng đoàn. Ngài yêu mến và chăm chỉ lo nâng đỡ đoàn chiên bằng các Bí tích, nhất là Thánh lễ và Giải tội. Ngài cũng đặc biệt quan tâm đến dạy dỗ các trẻ em như là công việc hàng đầu và kết quả là con số hàng năm các em chịu lễ lần đầu tăng lên dần từ vài chục đến 5 trăm em.

Năm 1898, Cố Lạc đã đặt mua bốn quả chuông ở bên Pháp cho Nhà thờ Kẻ Sở: Quả thứ nhất nặng 2.462 kg, mang tên “Ma-ri-a Vỗ nhiễm nguyên tội” và bên dưới ghi tên “Damrémont” quê ngài, quả này do những người Pháp làm việc trong vùng Kẻ Sở, Phủ Lý dâng. Quả thứ hai nặng 1281 kg, tên là “Louise-Francoise” do giáo dân xứ Kẻ Sở dâng. Quả thứ ba nặng 717 kg, mang tên “Josephine Marguerite Marie” do một số gia đình trong vùng Phủ Lý dâng. Còn quả thứ tư nặng 318 kg, mang tên “Jeanne Philomène” do những người giáo dân các nơi khác dâng, đặc biệt là cụ Tuyên và xứ Kẻ Trừ. 4 quả chuông này được mua với giá 5600 francs và được Đức cha Đông làm phép vào lễ Giáng sinh năm 1898,  được kéo lần đầu tiên ngày 2 tháng 2 năm 1899.

Tại nhà in, Cố Lạc phải lo điều hành việc in ấn các sách học của chủng viện và các sách đạo. Nhân sự vận hành nhà in này gồm có chừng 15 thợ sắp chữ và công nhân in, các thầy kẻ giảng lo kiểm soát bản văn và trông coi kỹ thuật, sáu nữ tu Dòng Mến Thánh Giá lo việc đóng sách. Nhờ những cuốn sách được in này mà sinh ra nhiều hoa trái thiêng liêng, hỗ trợ công việc truyền giáo và lưu truyền Đức Tin, lòng đạo đức qua bao thế hệ.

Với gần 50 năm phục vụ và đạt được những thành quả lớn lao, người ta cứ tưởng Cố Lạc là nhân vật phi thường, nhưng thực chất ngài rất giản dị, bình thường, không có tài năng đặc biệt nào, với một sức khoẻ không tốt lắm vì thời tiết khắc nghiệt không phù hợp ngay từ khi mới sang. Nhưng bù lại với lòng nhiệt thành đạo đức, tốt bụng, ngài luôn là con người hết mình vì công việc phục vụ và trông cậy vào sức mạnh nơi Chúa. Cố cũng luôn ý thức nhiệm vụ chính của mình là thừa sai, nên hàng tuần vẫn đưa các thầy kẻ giảng tới các làng lương dân để tiếp xúc và giảng giáo lý cho họ hay thăm viếng những người tân tòng, sẵn sàng giúp đỡ họ cả tinh thần lẫn vật chất khi họ cần.

Với những khối lượng lớn công việc đầy nhiệt huyết quên mình như vậy đã làm sức lực ngài càng ngày càng suy kiệt. Đầu tháng 2 năm 1919 ngài bị một trận cúm tấn công rồi biến chứng thành viêm phổi, chỉ trong vài ngày bệnh tình trở nên nguy kịch vì  những cơn đau thắt làm ngài rất khó khăn để thở. Sau khi chịu các phép cuối cùng được một tuần, ngài đã an nghỉ trong tay Chúa lúc 8 giờ tối ngày 12 tháng 2 năm 1919.

Beati mortui qui in Domino moriuntur.

Lm. Tô-ma A-qui-nô Nguyễn Xuân Thủy

(Trích “Nội san Nhà Chung”, Số 29)

Nguồn: TGP Hà Nội

TIN MỚI NHẬN

TIN HÀNH HƯƠNG

TIN GIÁO XỨ

SUY NIỆM LỜI CHÚA

Translate »
Lên đầu trang