Cố Bản sinh ngày 4 tháng 9 năm 1844 tại làng Montreuil-Bellay, tỉnh Maine-et-Loire, miền Đông của nước Pháp. Tên đầy đủ của của ngài trong sổ Rửa tội là Henri-Francois Bon. Sau khi tốt nghiệp chương trình trung học của trường Công giáo Combrée, ngài xin gia nhập Chủng viện Hội Thừa sai Paris năm 1863 với ước nguyện đi truyền giáo tại viễn đông. Khi đang học ở Chủng viện ngài đã được chọn tham gia phiên tòa điều tra về hồ sơ 93 Đấng Đáng kính và Tôi tớ Chúa tử đạo tại các xứ truyền giáo thuộc Hội Thừa sai Paris phụ trách. Nhiệm vụ này càng khích lệ ngài yêu mến ơn gọi của mình hơn.
Được chịu chức linh mục ngày 21 tháng 12 năm 1867, Cố Bản được sai đi truyền giáo tại Trung Quốc, nhưng trước hết được cử đến Việt Nam để hoàn tất hồ sơ điều tra về các Đấng Tử Đạo tại Đàng Trong và Đàng Ngoài. Sau hai năm làm việc ở Đàng Trong, ngài ra Đàng Ngoài để tiếp tục công việc làm án điều tra. Nhận thấy công việc này còn phải mất nhiều thời gian chưa có người thay thế, hơn thế nữa cố Lesserteur Nam lại được gọi về Paris làm giám đốc chủng viện, nên Đức cha Phước, Đại diện Tông Toà Tây Đàng Ngoài, xin cho Cố Bản đổi bài sai để ở lại Địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội). Trong hai năm 1874-1875, ngài cũng sang tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc để hướng dẫn các thủ tục hồ sơ mở án phong chân phước cho các Đấng Tử Đạo bên đó.
Cố Bản đã nỗ lực đóng góp công sức rất nhiều để lập hồ sơ điều tra về các Đấng Tử Đạo ở Đàng Ngoài. Ngài phụ trách 400 hồ sơ tử đạo, ngài tổ chức 420 phiên họp, thẩm vấn các nhân chứng, lấy lời khai dài 2.000 trang giấy. Ngài cũng dịch 500 trang hồ sơ tiếng Nôm và dịch tất cả hồ sơ sang tiếng Pháp và tiếng La tinh để gửi sang Toà Thánh. Cố Bản cũng là trợ thủ đắc lực giúp Đức cha Đông hoàn thành hồ sơ cho các Đấng được phong Chân phước năm 1909 và nhiều Đấng Tôi tớ Chúa mà hồ sơ đã được gửi sang Rô-ma. Trong khối lượng hồ sơ các Đấng Tử Đạo Địa phận Tây Đàng Ngoài mà Đức cha Đông đã lập ngày nay còn giữ được khoảng 8.000 trang, thì một phần tư tài liệu là do cố Bản viết. Ngài cống hiến toàn bộ cuộc đời tông đồ của mình vì công việc này để làm vinh quang các thánh tử đạo. Mặc dù tính chất đặc thù đơn điệu của công việc nhưng ngài luôn tỏ ra yêu thích và say mê, chưa bao giờ ngài xin Đức cha giải thoát mình khỏi công việc đó.
Cố Bản cũng có một đam mê khác là nghiên cứu về thực vật học và khoa học tự nhiên. Ngài có một bộ sưu tập khoa học các cây và hoa ở Việt Nam mà từ điển thực vật ở Pháp chưa biết tới, nên người ta lấy tên ngài đặt cho một số chưa có tên khoa học. Bảo tàng sinh vật học Paris, mà cố là cộng tác viên, rất biết ơn những đóng góp của ngài. Chính quyền Pháp tặng ngài bằng khen và huân chương Rồng vàng vì những công trình nghiên cứu đáng giá đó.

Suốt từ khi mới tới Địa phận Tây Đàng Ngoài, Cố Bản thường ở với Đức cha tại Kẻ Sở. Vào tháng 3 năm 1892, do thiếu linh mục cho vùng truyền giáo mới ở Thanh Hoá, ngài được Đức cha gửi vào đó để điều hành công việc truyền giáo trong vùng[1]. Trong một lần đi vào vùng rừng núi của người Mường để giúp người bệnh, ngài đã bị ngã nước nên sức khoẻ suy yếu trầm trọng. Đức cha gửi cố Riguin vào làm việc thay thế ngài. Cố Bản chọn đến ở xứ Kẻ Bền – Thanh Hóa, để tiện dưỡng bệnh và viết sách. Ngài tới Kẻ Bền vào sau lễ Các Thánh, thì vào ngày lễ Vô Nhiễm 8 tháng 12 ngài bị một cơn sốt nặng, sau đó đã đỡ hơn một chút, ngày 10 tháng 12 năm 1894 ngài bị một cơn sốt cao và qua đời đột ngột.
Sự ra đi của người không chỉ làm người Công giáo xúc động thương tiếc mà cả các báo chí ở Hà Nội cũng đăng tin về sự ra đi của một nhà khoa học tự nhiên, cống hiến nhiều công lao nghiên cứu về thực vật học ở Việt Nam. Ngài được an táng tại Vườn Thánh Giáo xứ Kẻ Bền, ngay dưới chân Cây Thánh Giá. Đức cha Đông đã viết về ngài rằng: “Tôi tin tưởng chắc chắn rằng Các Thánh Tử Đạo mà ngài đã hết lòng phục vụ sẽ dành cho ngài một nơi an nghỉ đầy ánh sáng và an bình trong Chúa”.
(Dựa theo hồ sơ Các thừa sai của MEP số 0965)
Lm. Tô-ma A-qui-nô Nguyễn Xuân Thuỷ
Trích “Nội san Nhà Chung” – Số 27
*ảnh 2: Mộ cố Bản tại Kẻ Bền – Thanh Hoá.
_____
[1] Lúc đó Thanh Hoá vẫn thuộc Địa phận Hà Nội.
Nguồn: TGP Hà Nội