Gioan Baotixita Ðinh Văn Thành, Sinh năm 1796 tại Nộn Khê, Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng cùng với Thánh Phêrô Hiếu và Thánh Phaolô Khoan vì trực thuộc Hội Thừa Sai Balê. Đức Lêo thứ XIII suy tôn Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 28/04.
Lời cảm tạ
Tâu thượng đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn…
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài…
Đó là lời kinh TE DEUM lời kinh tạ ơn mà cha khoan và hai thày Hiếu, Thành đã hát vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai nghe được. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trên môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vượt thấu chín tầng mây, chấp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôn thần thánh trên Thiên Quốc.
Định mệnh nối kết ba con người
Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vịnh, rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ, ngoài xứ chính ra cha còn phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến các họ lẻ dâng lễ, giải tội và khích lệ giáo hữu sống đạo đức gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy cha thường dẫn theo một vài thày giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu xát hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thày cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,và thày Gioan Baotixita Đinh Văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn khê (Phát Diệm). Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan đã 66 tuổi.
Trước lời đường mật
Vì kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu, một hôm quan Tổng trấn mời ngài đến và nói: “Ta muốn kết thân với ông. Ta chỉ muốn tìm cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá”. Cha trả lời : “Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết”. Rồi cha kể lại chuyện xảy ra năm 1802:
“Khi đó, Thế Tổ Gia Long, phụ thân của Hoàng đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống hòa thuận và chăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn lệnh vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, tránh điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và thuần phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan lại bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đã tuân hành biết bao năm nay ?
– Thế ông không muốn sống à ?
– Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là cách sống đời đời trên Thiên Đàng.
– Ai bảo ông là có Thiên Đàng.
– Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ Người đến chết sao ? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng.
– Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất ?
– Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên tức khắc phải nhận ra có Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ Người”.
Vì hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đã ở tù được gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không cách nào có thể làm các vị thay lòng đổi dạ.
Thái độ hai thày giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ thán phục. Dù bị hành hạ dã man đến đâu, hai thày cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều : “Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin”. Niềm an ủi lớn nhất của hai thày là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thày coi những ngày ở tù như thời gian thanh luyện để lập công đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: “Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?”. Quan hỏi : “Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à ?”. Cha nói : “Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào ngũ thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Người được”.
Lời chứng cuối cùng …và bài ca phục sinh
Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết chí của ba người “lính” Chúa Kitô, quan đành quyết định ký án tử gởi về triều đình xin phép. Trong những ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thày giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thày một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân đó.
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời, ngài nói : “Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu và vì không chịu bỏ đạo Kitô, là đạo duy nhất chân thật”.
Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thày hiệp ý cầu nguyện với linh mục : “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài, xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực”.
Tiếp theo ba vị cầu nguyện bằng thánh ca. như trong đêm Phục Sinh, cha Khoan hát lên ba lần Allêluia, Allêluia, Allêluia mỗi lần nói cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó hai thày giảng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao độ của vị chủ sự : “Allêluia, Allêluia, Allêluia”.
Sau đó lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allêluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thày Hiếu 63 tuổi, thày Thành 44 tuổi. Thày giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.
Đức Lêo thứ XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, hai thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Tâm tình Đức Cha Retord Liêu trong thơ gởi cha Khoan
“Sách có câu : Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc, với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ để chờ lưỡi rìu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.
Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn hoa Giáo Hội làm nó thêm phong nhiêu (phong phú và phù nhiêu)…
Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé !” (Launay III, tr.37-38).
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.
Gioan Ðinh Văn Thành thầy giảng
Sinh Bính Thìn (1796) Tiêu Bảng Nôn Khê
Giúp xứ chu đáo khỏi chê
Theo cha ngoại quốc tiện bề đi thi
Rồi sau đó Ngài thì rửa tội
Rất siêng chăm sớm tối đọc kinh
Hăng say chu đáo nhiệt tình
Cha Khoan thay thế, thân tình Việt Nam
Ðược Cha chọn Thầy làm quản lý
Một năm sau được chỉ quản coi
Thầy luôn khiêm tốn học đòi
Nêu cao gương sáng chiếu soi khắp vùng
Mùa gặt lúa thầy cũng ra sân
Tiếp tay giúp việc dân làm mùa
Khéo tay chẳng có chịu thua
Nông dân phấn khởi vụ mùa thu gom
Thầy chịu khó trông nom bổn đạo
Dạy giảng khuyên loan báo đức tin
Thầy luôn theo dõi hướng tìm
Cùng lo bảo vệ giữ gìn của chung
Thầy bị bắt ngay vùng Phúc Nhạc
Nghe hung tin cô bác tiếc thương
Quân lính dẫn giải lên đường
Ninh Bình về tới hội trường cửa quan
Quan án hỏi tràng giang đại hải
Thầy khiêm nhu nhưng lại vững lòng
Quan quân chẳng đạt ước mong
Lại giao cho lính nhốt trong nhà tù
Tôi là người trong khu đạo trưởng
Chúa thương ban được hưởng hồng ân
Không màng danh lợi thế trần
Tùy quan tha xử, đều cần cảm ơn
Quan tức giận nổi cơn thịnh nộ
Bắt đeo gông nặng cổ ngày đêm
Ðòn roi mãi nặng tăng thêm
Thầy Thành chẳng sợ, ơn trên nguyện cầu
Quan cho Cụ Ruyệt câu dụ dỗ
Chối đạo đi có chỗ ăn năn
Phêrô chối Chúa phải chăng
Chúa còn tha thứ, thưa rằng thưởng công
Thầy ôm mặt và không hề nói
Quan lại cho tra hỏi thêm roi
Thầy Thành kiên vững chịu đòn
Phó dâng Thiên Chúa, sắt son không sờn
Xin diễm phúc lãnh ơn tử đạo
Cho trí con tỉnh táo tới cùng
Trong nhà tù Thầy khiêm cung
Khuyên răn nhắc nhở, người cùng bị giam
Bản án lệnh truyền ban Minh Mạng
Ðược châu phê án lệnh đầu năm
Nên lại hoãn mấy tuần trăng
Sau rồi ấn định lại rằm tháng tư
Dẫn pháp trường Thầy ư vui vẻ
Vẫn đọc kinh nhỏ nhẹ cầu xin
Lý hình gươm sẵn đứng nhìn
Tay vung mạnh chém trái tim Thầy ngừng
Ðầu rơi lính nhặt tưng khoái chí
Việc xảy ra theo ý Chúa Cha
Xác thân an táng quê nhà
Hồn về an hưởng nước Cha trên trời
Năm Canh Tý (1840) tuyệt vời tử đạo
Thắng thế gian, thắng cả bạo quyền
Xác chôn hồn thẳng quy thiên
Suy tôn Canh Tý (1900) bình yên Nước Trời
Lời bất hủ: Cứ lặp đi lặp lại câu: “Dù sống, dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin”. Và cùng với hai thánh Khoan và Hiếu đồng ca bài hát trước khi bị trảm quyết như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa đất trời. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Người. Xin Chúa chúc phúc lành cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình, xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực”.