Thánh nữ tiên khởi Việt Nam
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất vì Đức tin kitô giáo của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng “hùm xám tỉnh Nam” (Nam Định) cùng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều phương thế, từ khuyên dụ ngon ngọtt đến tra tấn nhục hình, gông xiềng, đòn đánh đến tan nát thân mình, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ. Những giọt máu tung toé vì đòn vọt đã trở nên những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng : Anê Lê thị Thành, thánh nữ tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Người mẹ gương mẫu
Anê Lê thị Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành đã theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ được hai con trai tên Đê và trân và bốn gái : Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi tên cha mẹ bằng tên người con đầu lòng, vì thế mới có tên ông Đê, bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Cô Lucia Nụ, con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra phong thánh như sau :
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính người dạy chúng tôi học chữ và giáo lý, sau dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc dục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ”.
Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh : “Song thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi : Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui long đón nhận Thánh Giá chúa gởi cho. Người cũng thong khuyên vợ chồng tôi : “Hai con hãy sống hòa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.
Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ công giáo.
Từ bác ái đến tử đạo
Ông bà Đê có long bác ái hay thương giúp đỡ người, nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức ái đó đã đưa bà Đê đến phúc Tử Đạo.
Tháng 03.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông Trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.
Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã mật báo tin các linh mục trú ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày lễ phục sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trứơc nhất. Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre : “Xin cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì cha thoát, bằng không cha và con đều bị bắt”.
Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa.
Mặc áo hoa hồng
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp : “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…”
Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy : “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn”
Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gia. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng : “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá”
Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết : “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Quả thật bà đã thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:
“Tin yêu Chúa Tể muôn trùng ,
Tan vàng nát ngọc chữ trung một lòng”.
Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan : “Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Bà còn khuyên : “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”
Ngoài những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà còn chịu thêm đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi thuốc đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà cầu nguyện : “Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết long theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con”.
Cuối cùng bà dâng lời sau hết : “Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự”.
Bà Anê Đê đã về nhà cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.
Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để cho biết nạn nhân không còn sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.
Ngày 02.05.1909, Đức Piô X đã suy tôn chân phước cho bà Anê Lê Thị Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Trường thi tử Đạo.
Lê Thị Thành sinh năm Tân Sửu (1781)
Tại Bái Ðiền tiêu biểu tỉnh Thành
Khi cấm đạo rất nhiệt thành
Giấu nuôi cha Thị nhà mình vào ra
Xứ Phúc Nhạc bốn cha hiện diện
Riêng cha Thành ẩn hiện một nhà
Bà Ðê quý mến mời cha
Về nhà bà ở để mà tránh quan
Nhưng có kẻ tiền ham tên Ðễ
Một thanh niên theo để giúp cha
Tên này phản bội gian tà
Manh tâm xảo quyệt hắn đà tố quan
Làng Phúc Nhạc có hàng đạo trưởng
Hắn ham tiền muốn hưởng lập công
Quang Khanh huy động quân đông
Khoảng năm trăm lính chính ông điều hành
Vào sáng sớm Phục sinh cứu thế
Bắt tập trung toàn thể giáo dân
Lính đi lục soát xa gần
Hai cha may mắn lẹ chân Ngân, Thành
Cha dâng thánh lễ nhanh rời vi
Gác bếp kia máng xối chui lên
Vội vàng cha lỡ để quên
Vô tình gấu áo ló bên xối nhà
Bọn lính thấy hò la tới bắt
Còn cha Lý chạy tắt Trùm Cơ
Vườn bên ẩn nấp nương nhờ
Bà Ðê lấy lá che hờ phủ lên
Nhưng một lính đứng bên nhìn thấy
Có bóng người vườn ấy chạy sang
Bụi cây chúng bắt quả tang
Bắt ngay cha Lý liên can chủ nhà
Bắt bà Ðê rất là sợ hãi
Lính trói ngay chúng giải đình làng
Nơi đây trình diện với quan
Bà Ðê gương mặt vững vàng vui tươi
Nạn nhân điệu về nơi thị xã
Ði suốt đêm mệt lả rã rời
Bà Ðê sức yếu hụt hơi
Mang gông quá nặng phải người tiếp tay
Về Nam Ðịnh đưa ngay vô nhốt
Ðược giam chung dịp tốt nữ tu
Cùng nhau trao đổi trong tù
Thêm lòng can đảm đòn thù tấn tra
Trước quan tòa bắt bà bỏ đạo
Bà đáp lời Chúa tạo muôn loài
Tôn vinh Thiên Chúa quản cai
Tôi luôn kính trọng thờ Ngài Chí Tôn
Quan tức giận lính dồn đòn đánh
Lính dùng roi với thanh củi dài
Vô cùng hung dữ trần ai
Bà luôn khẩn nguyện kêu nài Nữ Trinh
Xin Mẹ hãy thương tình giúp đỡ
Ðược kiên tâm luôn ở trong Cha
Vì con yếu đuối đàn bà
Nhiều lần thẩm vấn trước tòa quan quân
Bà sấp mình nhiều lần kêu tiếng
Xin Chúa thương đến viếng cứu con
Ðể con giữ đạo vuông tròn
Chồng con thăm viếng héo hon u buồn
Nhưng bà vẫn luôn luôn an ủi
Vinh danh Cha chớ tủi nản lòng
Quan quân bạo lực không xong
Chúng dùng mưu độc muốn hòng thắng thua
Quan Tổng Ðốc cho đùa với rắn
Túm áo quần bỏ rắn vào trong
Toàn loài rắn độc lòng vòng
Bà Ðê bình tĩnh rắn không cắn người
Trịnh Quang Khanh ngồi cười khoái chí
Rắn lượn vòng tự ý bò ra
Quan quân tức giận quá mà
Liền cho lính đánh đập bà dữ hơn
Bà kiệt sức cô đơn trong ngục
Nhưng ý bà tiếp tục nguyện cầu
Cho con chịu khó dài lâu
Thân mình đầy máu từ đầu đến chân
Lời khẩn nguyện là lần sau hết
Xin cho con được chết trong Cha
Cuối cùng bà thở hắt ra
Linh hồn siêu thoát Nước Cha vĩnh hằng
Lễ an táng đất bằng Bảy Mẫu
Sáu tháng sau phối ngẫu, giáo dân
Cháu con thân thuộc xa gần
Ðem về Phúc Nhạc mộ phần thánh nhân
Phúc tử đạo lãnh phần Tân Sửu (1841)
Phận nữ nhi nặng trĩu niềm tin
Roma Toà Thánh hướng nhìn
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) đức tin vững vàng
Viết đôi nét về đàng gia tộc
Chồng tới thăm phút chốc nhà tù
Bà khuyên hãy sống khiêm nhu
Trông coi con cái hộ phù Chúa ban
Con thương mẹ nhà giam khổ cực
Bà lại khuyên phải thực là ngoan
Chăm lo đạo đức vững vàng
Giúp cha sớm tối xóm làng thân thương
Bà sống đạo tấm gương hậu thế
Nghĩa vợ chồng dâu rể cháu con
Gia đình hạnh phúc sắt son
Thánh Ðê tử đạo mãi còn khắc ghi
Bà thánh Ðê quê nội ở làng Bái Ðiền, huyện Yên Ðịnh, tỉnh Thanh Hóa. Quê Ngoại ở làng Phúc Nhạc, tỉnh Nam Ðịnh. Năm 17 tuổi lập gia đình quê ngoại với anh Nguyễn Văn Nhất, hạ sanh được 2 trai 4 gái bà hưởng thọ 60 tuổi.
Lời bất hủ: Bà thánh Ðê khuyên các con: “Con hãy về (tức chị Lucia Nụ) chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng”. Khi chị Nụ thăm mẹ trong tù thấy y phục loang lổ máu, khóc thương, mẹ an ủi: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con lại khóc?”. Khi chồng bà vào thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Ðức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn”. Quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi qua Thánh giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bức con đạp lên Thánh giá”. Cuối cùng bà đã dâng lời cầu sau hết: “Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự”.