(Lc 2, 22-40)
Bước vào Chúa Nhật IV thường niên C, trùng vào lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh, và cũng là Chúa Nhật đầu năm Ất Tỵ. Thật ý nghĩa và đẹp biết bao khi chúng ta đặt tất cả những ước nguyện của Năm Mới này vào tay Đức Mẹ, xin Đức Mẹ dâng lên cho Chúa để Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lễ dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh hay còn được gọi là Lễ Nến. Ông Si-mê-on, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Ki-tô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là “Ánh Sáng muôn dân” (Lc 2, 32).
Đức Ma-ri-a dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh, vì theo Luật Môi-sen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23) đó là lý do Hài Nhi Giê-su được dâng cho Thiên Chúa.
Đây cũng là Lễ Thanh Tẩy, kính nhớ việc Đức Ma-ri-a được thanh tẩy theo luật Mô-sê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giê-su. Đức Trinh nữ Ma-ri-a đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lê-vi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8).
Sự kiện dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Lu-ca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Mô-sê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.
Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justiniano (527-565). Đối với Hội Thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Giáo hoàng Gelasiano vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giê-ru-sa-lem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Mi-la-nô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rô-ma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Ma-ri-a, Giáo hoàng Phao-lô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ ”dâng Chúa vào đền thánh”, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giê-su và Ma-ri-a đi song song. Đức Ki-tô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Ma-ri-a mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của dân Tân Ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Si-mê-on gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giê-su tiến vào đền thờ Giê-ru-sa-lem.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rô-ma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giê-su là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giê-su. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giê-su, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giê-su trong Đền thờ.
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Ki-tô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Si-mê-on, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người” (x. Phụng vụ Byzantine).
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và dân Người. Được Ðức Ma-ri-a và Thánh Giu-se đem vào Ðền Thánh, Chúa Giê-su đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Si-mê-on và An-na là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Ma-ri-a và Thánh Giu-se và các người già là Si-mê-on và An-na. Chúa Giê-su là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Lời của cụ già Si-mê-on nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Si-mê-on bồng ẵm Hài Nhi Giê-su, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giê-su là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Si-mê-on, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta… Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người.
Trong Năm mới Ất Tỵ, chúng ta hãy quyết tâm để sống đẹp lòng Chúa hơn, qua việc sống thân tình hơn với Đức Ma-ri-a. Và, để giống như Mẹ, chúng ta hãy tập suy ngẫm và ghi nhớ trong tâm hồn những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta (x. Lc 2, 19).
Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, chúng con đặt cuộc đời chúng con vào trong vòng từ mẫu của Mẹ để Mẹ dâng lên Thiên Chúa như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh, tất cả chúng con thuộc về Mẹ. A-men.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Nguồn: TGP Hà Nội